Nhắc đến Triết học, có lẽ nhiều người sẽ nghĩ rằng đây là bộ môn khó học, khô khan, hàn lâm... và ít mang tính thực tiễn. Tưởng chừng môn học này chỉ dành cho những con người giàu tri thức và vốn sống phong phú. Vậy, tại sao Triết học lại là một trong những môn học đầu tiên mà chúng ta tiếp xúc khi mới bước chân vào đại học, khi kiến thức của ta còn hạn hẹp và chúng ta chỉ mới chập chững bước vào đời? Hi vọng bài viết của mình có thể phần nào giúp các bạn trả lời câu hỏi này.

Triết học là bộ môn nghiên cứ về những vấn đề chung và cơ bản của con người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới quan, những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ. Triết học được phân biệt với những môn khoa học khác bằng cách thức mà nó giải quyết những vấn đề trên, đó là ở tính phê phán, phương pháp tiếp cận có hệ thống chung nhất và sự phụ thuộc của nó vào tính duy lý trong việc lập luận.

Trong tiếng Anh, từ "philosophy" (triết học) xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ đại φιλοσοφία (philosophia), có nghĩa là "tình yêu đối với sự thông thái". Sự ra đời của các thuật ngữ "triết học""triết gia" được gắn với nhà tư tưởng Hy Lạp Pythagoras. Một "nhà triết học" được hiểu theo nghĩa tương phản với một "kẻ ngụy biện" (σοφιστής). Những "kẻ ngụy biện" hay "những người nghĩ mình thông thái" có một vị trí quan trọng trong Hy Lạp cổ điển, được coi như những nhà giáo, thường đi khắp nơi thuyết giảng về triết lý, nghệ thuật hùng biện và các bộ môn khác cho những người có tiền, trong khi các "triết gia""những người yêu thích sự thông thái" và do đó không sử dụng sự thông thái của mình với mục đích chính là kiếm tiền.

Vladimir Lenin - Friedrich Engels - Karl Marx

Trước khi giải đáp cho những thắc mắc của mọi người, chúng ta cùng đến với mindmap (sơ đồ tư duy) dưới đây.

Dựa trên hình ảnh con mực, sơ đồ này thể hiện nên những suy nghĩ luôn quấn lấy thế giới này, như con mực luôn ngụy trang trong bóng tối khi gặp sự đe dọa, chúng ta có những khái niệm nhất định về nó nhưng rất mơ hồ. Những phạm trù của triết học luôn được thể hiện rất rõ ràng bằng những học thuyết nhưng khi so sánh các phạm trù, ta dễ dàng nhận thấy sự mâu thuẫn không thể hòa giải.

Hình ảnh đầu lâu đại diện cho con người. Dù có dành cả đời suy nghĩ, chiêm nghiệm, chúng ta cũng chẳng thể nào thấu hiểu hết được bản chất của thế giới này.

Chiếc hòm châu báu gắn với nhánh Chủ nghĩa Duy vật Biện chứng, là tượng trưng cho những suy nghĩ của con người về vật chất.

Chiếc đồng hồ đại diện cho Chủ nghĩa Duy vật Lịch sử. Chiếc đồng hồ là sự hiện diện vật chất của dòng thời gian chứng kiến những biến chuyển của lịch sử.

Trong bộ môn Triết học, kiến thức sẽ được phân ra 3 chương chính:
  • Chương 1: Khái niệm và vai trò của Triết học trong cuộc sống
  • Chương 2: Chủ nghĩa Duy vật Biện chứng
  • Chương 3: Chủ nghĩa Duy vật Lịch sử

Chương 1, ta sẽ nắm bắt được khái niệm cũng như nguồn gốc của triết học, các vấn đề cơ bản của triết học như chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, khái niệm phương pháp tư duy siêu hình và phương pháp tư duy biện chứng. Ngoài ra, ta còn tìm hiểu thêm về Triết học Marx-Lenin và vai trò của Triết học Marx-Lenin trong đời sống xã hội hiện nay.

Trong Chương 2, chúng ta sẽ làm quen với khái niệm Chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trong chương này chúng ta sẽ có 3 phần. Phần thứ nhất, ta cần nắm được mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Phần thứ hai là phép Biện chứng Duy vật. Ở phần này ta cần thấy được phép biện chứng duy vật là phương pháp luận khoa học trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Phần thứ ba là lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trong phần này, ta sẽ có câu trả lời cho câu hỏi là liệu con người có thể nhận thức được thế giới hay không. Theo Triết học Marx-Lenin - Bản chất của nhận thức là gì? | Luat Havip

Cuối cùng, toàn bộ Chương 3 sẽ là về Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đầu tiên, học thuyết hình thái kinh tế-xã hội của K.Marx được xem là hòn đá tảng của chủ nghĩa Marx về lịch sử khi đã tạo ra một bước đột phá trong toàn bộ quan điểm về xã hội loài người, trang bị phương pháp luận khoa học để phân tích làm rõ quá trình hình thành vận động và phát triển của lịch sử loài người, cơ sở khoa học của học thuyết này cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Học thuyết K.Marx về hình thái kinh tế-xã hội - hòn đá tảng cho xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người.

  • Trong phần Giai cấp và dân tộc, ta cần phải thấy được mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại, vận dụng sáng tạo lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp để đưa vào từng điều kiện cụ thể của Việt Nam, đưa sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đến thắng lợi, góp phần tích cực và thực hiện tiến bộ xã hội của nhân dân thê giới.
  • Trong phần ba, Nhà nước và cách mạng xã hội, ta cần nắm được khái niệm, bản chất của xã hội và cách mạng xã hội. Xã hội thay đổi thì cách mạng xã hội cũng sẽ thay đổi dần theo các yếu tố lĩnh vực của đời sống để xã hội tiến bộ và phát triển.
  • Trong phần Ý thức xã hội, ta cần nắm được khái niệm ý thức xã hội là gắn liền với khái niệm tồn tại của xã hội.
  • Ở phần cuối cùng, Triết học và con người, ta cần nắm được bản chất của con người, từ đso hiểu được con người được đặt ở vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế-xã hội. Sự thành công của công cuộc đổi mới nói riêng và sự phát triển đất nước nói chung phụ thuộc rất lớn và việc phát huy vai trò của con người, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ, cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra rất nhanh, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế có nhiều biến động.

Ở đầu phần trình bày chúng ta đã đặt ra câu hỏi là ở vì sao chúng ta lại tiếp xúc với Triết học khi còn sớm như vậy? Qua những ý khái quát trên, mình xin đưa ra câu trả lời: Triết học cho chúng ta "kiến thức" và "kỹ năng".

TRIẾT HỌC MANG LẠI CHO CHÚNG TA KIẾN THỨC

Triết học trang bị cho con người "thế giới quan""phương pháp luận khoa học" trong nhận thức và hành động thực tiễn, trực tiếp đưa ra các giải pháp và cách thức giải quyết vấn đề một cách chuyên nghiệp đồng thời có thể tìm ra các phương pháp hiệu quả và linh hoạt để xử lý, sắp xếp các thông tin một cách có tổ chức.

Triết học còn cung cấp cho chúng ta "tư duy đúng đắn" từ suy nghĩ cho đến hành động, Đem lại tri thức về các mối quan hệ xã hội, về bản chất, chủ nghĩa của nhà nước, về cái thiện và cái ác, về mối quan hệ của cá nhân với nhà nước, về tự do và trách nhiệm.

Và quan trọng nhất, Triết học cung cấp "kiến thức nền tảng", "kỹ năng" cần thiết để làm hành trang bước vào cuộc đời.

Những kiến thức mà Triết học đem lại

- Trang bị kiến thức về thế giới quan: Triết học, với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, khi ra đời đã đem lại cho thế giới quan một sự thay đổi sâu sắc. Với những đặc điểm đặc thù của mình, Triết học đã làm cho sự phát triển của thế giới quan chuyển từ trình độ tự phát, thiếu căn cứ thực tiễn, phi khoa học, nặng về cảm tính, lên trình độ tự giác, có cơ sở thực tiễn và cơ sở khoa học, giàu tính trí tuệ, lý tính. Điều đó tạo cơ sở để con người có thể xây dựng, một thái độ sống đúng đắn, tích cực, biểu hiện ở việc giải quyết các vấn đề thực tiễn nảy sinh trong cuộc sống của mình. Học tập Triết học là một tiền đề quan trọng để nâng cao hiểu biết, trình độ và năng lực tư duy lý luận để từ đó xây dựng được một thế giới quan, nhân sinh quan đúng đắn, phù hợp với sự phát triển của thế giới và của thời đại.

- Phương pháp luận : Là hệ thống lý luận về phương pháp nghiên cứu, phương pháp nhận thức và cải tạo hiện thực; là hệ thống chặt chẽ các quan điểm, nguyên lý chỉ đạo việc tìm kiếm, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp. Phương pháp luận giúp gợi mở, định hướng, chỉ đạo và  phản ánh đúng đắn, khoa học trạng thái tồn tại của thế giới khách quan. Phương pháp luận còn giúp cta xây dựng một thế giới quan đúng đắn và đem lại kết quả tích cực trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của mỗi con người.

- Xã hội và chính trị: giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về thế giới quan, nhân sinh quan, về các mối quan hệ trong xã hội, về bản chất, chức năng của nhà nước và của pháp luật, về tự do và trách nhiệm. Vì vậy, Triết học có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên.

- Cung cấp kiến thức nền tảng và kỹ năng: Trong Triết học, chúng ta học cách suy nghĩ một cách chín chắn, làm thế nào để phân tích thông tin, làm thế nào để đưa ra các lập luận thuyết phục và làm thế nào để viết một cách rõ ràng và logic; đồng thời học cách giao tiếp hiệu quả,...

TRIẾT HỌC MANG LẠI CHO CHÚNG TA KỸ NĂNG


Kỹ năng phân tích: Có thể nói kỹ năng phân tích là kỹ năng quan trọng nhất trong tất cả các kỹ năng mà sinh viên được tìm hiểu và học tập. Bởi Triết học cho phép chúng ta xem xét môi trường quen thuộc của chúng ta từ một góc độ hoàn toàn mới. Từ đó cho phép ta nhìn nhận vấn đề đa chiều, nhận thức các định kiến của mình, đánh giá vấn đề một cách đúng đắn nhằm tìm ra các phương pháp giải quyết hiệu quả và linh hoạt. Đó cũng chính là tiền đề của Kỹ năng giải quyết vấn đề.

Bằng cách dạy chúng ta nhìn thế giới khác đi, triết học cũng cho phép chúng ta nhìn nhận bản thân khác đi. Triết học cho phép chúng ta tìm hiểu nhau, khiến chúng ta nhận thức lại về những điều mà chúng ta cho là đúng khi đối chiếu với những ý kiến của những người khác. Do đó, triết học còn dạy chúng ta lắng nghe, để làm phong phú và hoàn thiện nhận thức của chúng ta về thực tế. Một khi đã nhận ra những định kiến của bản thân, người ta sẽ tương đối hóa cái nhìn cũ của mình, sẽ bỏ bớt định kiến, sẽ nhìn khác về bản thân và người khác cùng các ý kiến của họ để có thể lắng nghe người khác. Và đó cũng chính là Kỹ năng giao tiếp và thương lượng.

Cuối cùng là Kỹ năng tư duy phản biện: Đây là cơ sở, tiền đề cho mọi sáng tạo, đổi mới trong cuộc sống. Tư duy phản biện giúp kích thích khả năng đặt câu hỏi và tìm kiếm vấn đề, giải pháp mới bởi Triết học được hình thành từ chính những câu hỏi của con người về thế giới và chính bản thân mình, thể hiện niềm khát khao khám phá thế giới, tìm kiếm chân lý, vì thế chúng ta không dễ dàng chấp nhận những tri thức, niềm tin có sẵn, bị áp đặt mà luôn đặt chúng dưới sự xem xét, đánh giá về tính đúng sai, về độ tin cậy trước khi áp dụng vào giải quyết vấn đề; nhờ đó, ta có khả năng phát hiện, tìm ra các cách tiếp cận hoặc giải pháp mới.

Tóm lại, khi chúng ta tiếp cận với các quan niệm triết học, ta sẽ có cơ hội vượt ra khỏi những niềm tin giới hạn, những định kiến, suy nghĩ máy móc để nhìn vấn đề dưới con mắt của sự “hoài nghi”, có năng lực suy nghĩ độc lập, chủ động trong tiếp nhận đánh giá thông tin, tri thức.

Q&A

Tại sao Triết học lại có nguồn gốc từ thực tế?
- Vì Triết học là sản phẩm đúc kết của quá trình mà con người đặt ra vấn đề và giải quyết (ý thức triết học).

Ý thức triết học theo định nghĩa của Triết học Marx-Lenin? - Là một phạm trù được quyết định với phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và có sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ biện chứng với vật chất. - Ý thức triết học có nguồn gốc thực tế vì con người trong bất kỳ thời đại nào cũng tồn tại vấn đề cần giải quyết. Từ  đó ta có thế hiểu ý thức triết học là cách người ta suy nghĩ khi giải quyết vấn đề của mình. Họ nghĩ rằng làm như thế nào để giải quyết vấn đề hiện tại và tương lai.

Nguồn gốc của Triết học? - Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây từ khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ VI TCN, tại các quốc gia văn minh cổ đại như: Hy Lạp, Ấn Độ, Trung Quốc.

Tại sao Triết học lại là dạng lí luận sớm nhất? - Vì theo cáo nhà sử học nghiên cứu thì cho tới hôm nay chỉ phát hiện ra Triết học là dạng lí luận từ các nền văn minh xa xưa.

Tại sao con người thường thông qua Triết học rèn luyện kĩ năng? - Đơn giản Triết học là dạng lí luận tồn tại sớm nhất và phát triển theo thời gian, theo biến động của xã hội và ảnh hưởng tư duy của nhiều nền văn minh trên dòng lịch sử và ảnh hưởng tới nhiều nơi trên toàn thế giới. Các kiến thức của Triết học là quá trình đúc kết qua rất nhiều thế kỷ, do đó có giá trị tham khảo cao. - Đồng thời cá nhân ta không thể phủ nhận rằng những môn học khác cũng giúp chúng ta rèn luyện kĩ năng.

Post a Comment